Theo luật "Quy loại ngũ hành" của YHCT, năm "Canh Dần" được ghép vào hành mộc, mà tạng can, phủ đởm trong cơ thể cũng thuộc về hành mộc. Và cứ theo cách tư duy, diễn giải của ngũ hành thì các bệnh của tạng can, phủ đởm, tức bệnh của gan và mật vào năm Canh Dần sẽ dễ gia tăng.
Khi đón mùa xuân về, đồng thời với cái náo nhiệt, tưng bừng của những ngày đầu năm mới thì cũng kèm theo cái nồng nàn, hừng hực của "men say" với đủ các loại mẫu hình của rượu, bia "nội, ngoại". Mà đã nói đến "rượu, bia " thì cái cơ quan đầu tiên trong cơ thể phải gánh chịu lại là gan và mật. Như ta đã biết, gan tiết ra men, mật (acid mật), là tạng giữ nhiều chức năng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể: Chuyển hóa và tồn trữ các chất dinh dưỡng trong thức ăn để tạo ra năng lượng phục vụ cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Ngoài ra, gan còn có chức năng giải độc rượu. Mà cứ làm cái nhiệm vụ giải độc mãi thì gan cũng sẽ đến lúc "qụy", là cái điều không thể tránh khỏi. Do đó việc điều chỉnh "chén rượu, lon bia để mừng xuân mới" một cách hợp lý là vấn đề mà mọi người cần quan tâm.
Hơn nữa, sang xuân tiết trời ấm áp hơn, song lại hay kèm theo mưa phùn, ẩm ướt... và đó cũng là các yếu tố thuận lợi cho việc phát triển, lây lan các chủng loại vi khuẩn, virut nói chung và không loại trừ các loại virut viêm gan. Xin giới thiệu một số loại thuốc nam có tác dụng điều trị các bệnh viêm gan virut.
Cúc gai
Vị thuốc là quả của cây cúc gai (Silybium marianum (L.) Gaertn), họ cúc (Asteraceae). Người ta thu hoạch quả già, quả chín, phơi khô hoặc sấy khô ở nhiệt độ 50-60oC rồi đóng gói vào các túi chống ẩm, để nơi khô ráo thoáng mát, thường xuyên kiểm tra, đề phòng sâu mọt, nấm mốc phá hoại.
Cúc gai có vị đắng, tính hàn. Quy kinh can, đởm, phế. Có tác dụng thư can, lợi mật, thanh nhiệt giải độc. Dùng điều trị các chứng can đởm thấp nhiệt, các bệnh viêm gan, viêm túi mật, bệnh đau gan, vàng da... Ngoài ra còn được dùng để trị ho suyễn lâu ngày, mụn nhọt sưng đau. Ngày dùng 4-6g, dưới dạng thuốc sắc, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác, đóng trong các nang mềm.
Actisô
Vị thuốc là lá của cây actisô là cây thuộc thảo, cao đến 1-1,2m, có thân ngắn thẳng và cứng, phủ một lớp lông trắng như bông. Lá to, dài, mọc so le, phiến lá xẻ thùy sâu và có răng cưa không đều. Cụm hoa to mọc ở ngọn có mầu đỏ tím hoặc tím lơ. Ở Việt Nam, actisô thích hợp với điều kiện xứ mát như Đà Lạt (Lâm Đồng), Sapa (Lào Cai), Tam đảo (Vĩnh Phúc).
Trong actisô có chứa các thành phần flavonoid: cynarosid (luteolin - 7- D - glucopyrano - glucosid); scolymosid (luteolin - 7- rutinosid); cynarotriosid (luteolin - 7 - rutinosid - 3' - glucosid); các acid hữu cơ: cynarin, acid lactic, malic, fumaric, succinic...; các enzym: oxydase, peroxydase, catalase; các chất đắng, inulin, tanin...
Actisô có tác dụng lợi mật rất tốt, làm tăng lượng nước tiểu và lượng urê trong nước tiểu, làm giảm nồng độ cholesterol máu và urê máu.
Actisô được dùng để phòng và trị các bệnh viêm gan virut, các bệnh viêm gan mật nói chung, các bệnh viêm thận cấp mạn tính, các bệnh sưng đau xương khớp. Còn được dùng với tính chất giải độc cơ thể, giúp cho việc tiêu hóa tốt hơn. Có thể dùng dưới dạng chè hãm hoặc sắc uống hàng ngày với liều 10-12g lá khô; hoặc phối hợp với kim tiền thảo, xa tiền thảo, đồng lượng, sắc uống hàng ngày khi bị viêm gan, mật, viêm thận, bàng quang. Ngoài lá, hoa, rễ, thân cây cũng được dùng với tính chất lợi gan mật.
Diệp hạ châu
Còn gọi là cây chó đẻ răng cưa (Phyllantus urinaria L.), họ thầu dầu (Euphorbiaceae). Diệp hạ châu là cây thuộc thảo sống hàng năm. Toàn cây có màu xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ. Hoa đơn tính, nhỏ, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả nang, hình cầu nhỏ, mầu đỏ hơi xám nhạt, xếp thành hàng dọc, dưới lá. Diệp hạ châu mọc hoang ở nhiều nơi trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy nguyên liệu sản xuất thuốc trị viêm gan.
Trong diệp hạ châu có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin phyllantin, phyllantidin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin, phylteralin.
Dịch chiết của diệp hạ châu có tác dụng ức chế mạnh virut HBV thông qua cơ chế ức chế enzym ADNp (ADNpolymerase) của HBV và làm giảm HbsAg và Anti- HBs. Với nồng độ 5mg, chất chiết từ cây thuốc này có tác dụng ức chế phản ứng HbsAg - Anti - HbsAg, khoảng 60%. Với liều 900mg/ngày có tới 50% yếu tố lây truyền của viêm gan virut B (HBV) trong máu đã mất đi sau 30 ngày sử dụng diệp hạ châu. Để trị viêm gan vàng da, có thể dùng diệp hạ châu 40g, mã đề 20g, dành dành 12g. Sắc uống. Chữa bệnh viêm gan vàng da: diệp hạ châu, nhân trần, xa tiền, rau má, mỗi vị 12g; uất kim, đại hoàng, mỗi vị 6g; ngũ vị tử 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống liền 3-4 tuần lễ.